Chế biến Chè_lam_Phủ_Quảng

Gạo nếp sau khi được xay giã đến mức độ vừa phải (không quá trắng) thì được xay nhuyễn. Trước đây, việc xay gạo được tiến hành bằng cối đá, xay nhiều vòng quay mới được một vài giọt bột rơi xuống. Bột gạo xay được lắng đi phần nước trong, sau đó cho vào tấm vải thô, đặt trên thúng tro rơm nếp cho ráo hết nước, bẻ thành từng miếng nhỏ như miếng cau rồi đem phơi nắng đến khi trắng, giòn. Những miếng bột này được ủ trong túi nilon, đựng trong chum sành, khi nào làm chè mới sử dụng.[1]

Cùng với gạo nếp xay, một lượng nhỏ gạo nếp được đem rang chín đến khi có màu vàng, mùi thơm dịu. Gạo thường được rang trong chảo gang to, trong khi rang phải giữ lửa đều và luôn tay đảo đều. Gạo rang xong đem trải ra nia cho nguội.[1]

Lạc nhân sau khi rang thì được giã vỡ đôi hoặc vỡ ba. Gừng được đem đồ rồi cắt lát thật nhỏ.[1]

Mật mía được cho vào chảo, thắng (đun để cô đặc) đến khi nào mật sôi kỹ, giảm lửa để mật sôi lăn tăn. Đến độ cô nhất định, toàn bộ bột gạo, gạo rang, lạc, gừng được đổ nhanh vào chảo mật, quấy nhanh và đều tay. Hỗn hợp sau khi trộn kĩ thì được đổ lên mặt bàn hoặc mâm, sạch và phẳng, có trải sẵn một lớp bột chống dính. Chè lam lúc này được lăn đều rồi vo thành từng cục to như trái bưởi, sau đó đưa cối để giã tiếp. Sau khi được giã kĩ, chè lam được đưa lên bàn lăn thành bánh tròn như bắp tay rồi để nguội tự nhiên. Sau đó, những bánh chè này được cho vào khuôn, rồi dùng con lăn bằng vỏ chai lăn kín mặt khuôn và dùng dao hớt tạo mặt phẳng.[1]